Liên kết web
Thăm dò
Thống kê truy cập

null Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn mới

Tin tức|Tin tức sự kiện|Tin tổng hợp
Thứ tư, 30/11/2022, 10:00
Màu chữ Cỡ chữ
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn mới

Nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC) là nguồn nhân lực có trí tuệ, tay nghề, năng lực tốt, được đào tạo cơ bản, chuyên sâu để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn đất nước, của thị trường lao động hiện nay. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là yếu tố nòng cốt bảo đảm cho nền kinh tế phát triển, hội nhập sâu rộng, bền vững, ổn định trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức thời đại mới.

Trong quá trình xây dựng và phát triển, nhiều chủ trương, cơ chế chính sách dành cho NNLCLC đã được tỉnh ban hành, trong đó mới nhất là Nghị quyết 12 -NQ/TU, ngày 18/02/2022  của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XVI) về “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030”. Những giải pháp cũng như tinh thần của nghị quyết thể hiện rõ quyết tâm phát triển được một đội ngũ NNLCLC đáp ưng tốt yêu cầu cho công cuộc hội nhập, phát triển nhanh và bền vững.

 Sau 25 năm tái lập, với các chính sách thu hút nhân tài trên các lĩnh vực đã giúp Bạc Liêu từng bước giải được bài toán khó trên con đường phát triể, hiện đội ngũ nhân lực các cấp của tỉnh ngày càng được chuẩn hóa. Cụ thể: cấp tỉnh và huyện có trình độ từ đại học trở lên chiếm tỷ lệ 73,90% (27 tiến sĩ; 750 thạc sĩ; 40 bác sĩ chuyên khoa II; 302 bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa I; 9.361 đại học; 2.105 cao đẳng; 1.795 trung cấp); cấp xã có trình độ từ trung cấp trở lên đạt tỷ lệ 99,28% (trong đó có 36 thạc sĩ; 1.200 đại học; 16 cao đẳng; 131 trung cấp).

 Đối với lực lượng lao động trong độ tuổi từ 15 trở lên là 527.365 người (chiếm tỷ lệ 57,73%/tổng dân số), trong đó, đang làm việc trong các lĩnh vực là 510.548 người (nông, lâm, ngư nghiệp 44,72%; công nghiệp, xây dựng 22,55%; dịch vụ, du lịch 32,73%). Tỷ lệ lao động qua đào tạo 64,98%.

Cùng với công tác đào đạo, bồi dưỡng cán bộ đương nhiệm, tỉnh đã triển khai chính chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về công tác ở cơ sở. Trong 10 năm thực hiện, tỉnh đã chi 75 tỷ đồng để chi trả các chế độ chính sách nhằm đưa các trí thức trẻ về công tác ở xã, phường trên các lĩnh vực: nuôi trồng thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi, phát triển nông thôn, luật, kinh tế, công nghệ thông tin, địa chính, xây dựng… Đa số các sinh viên khi về cơ sở được bố trí phù hợp với trình độ chuyên môn, từ đó cũng đã phát huy được năng lực của bản thân.

 Sau chủ trương đưa sinh viên tốt nghiệp đại học về cơ sở và mời gọi nhân tài về công tác ở một số lĩnh vực, năm 2018 tỉnh đã bổ sung chính sách thu hút đối với sinh viên tốt nghiệp đại học hệ chính quy tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước các ngành y, dược, trồng trọt, thủy lợi, nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy sản và một số ngành khác theo nhu cầu của tỉnh; người có trình độ thạc sĩ các ngành nông nghiệp, thủy sản; người có trình độ tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa 2, dược sĩ chuyên khoa cấp 2 chuyên ngành y học. Theo đó, ngoài chính sách trợ cấp một lần và nhà công vụ, những trường hợp được tuyển dụng đều được bổ nhiệm ngạch chuyên viên và được hưởng phụ cấp tăng thêm bằng 100% mức lương được hưởng hiện tại.

Mặc dù vậy, NNLCLC của tỉnh còn bộc lộ nhiều hạn chế chưa đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là những đòi hỏi của thị trường lao động thời kỳ hội nhập. Lao động vẫn chủ yếu là lao động phổ thông, thiếu hụt nhiều lao động có tay nghề kỹ thuật cao; lao động vẫn chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp; nhiều ngành, nghề, lĩnh vực luôn ở trong tình trạng thiếu hụt trầm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao như: kinh doanh tài chính, năng lượng, công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo…; cơ cấu nhân lực lao động của tỉnh cũng còn nhiều bất cập.

Năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa đạt yêu cầu, kỹ năng, kinh nghiệm sử dụng ngoại ngữ để làm việc trong môi trường hội nhập quốc tế còn hạn chế; một số nơi tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ, công chức còn xảy ra; thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên một số ngành, lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực trọng tâm, trụ cột phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh (nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; năng lượng tái tạo; du lịch; y tế chất lượng cao;...).

Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn bất cập và chưa đạt yêu cầu; chưa cân đối hợp lý giữa đào tạo với sử dụng. Một số nơi chưa gắn việc quy hoạch cán bộ với đào tạo, bồi dưỡng nên việc phân công sau khi đào tạo chưa hợp lý. Công tác đánh giá phân loại cán bộ, công chức, viên chức một số đơn vị chưa đúng thực chất.

Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tỉnh luôn thiếu nhân lực có khả năng thực hiện những công trình nghiên cứu lớn, đáp ứng yêu cầu  phát triển các thế mạnh của tỉnh. Việc kết nối trong hoạt động chuyển giao khoa học và công nghệ, cơ chế chính sách đãi ngộ chuyên gia đầu ngành về địa phương công tác nhằm phục vụ phát triển kinh tế biển chưa được quan tâm đúng mức.

Những hạn chế, tồn tại trên được chỉ ra là do các nguyên nhân: (1) Một số cấp ủy nhận thức chưa đầy đủ về vai trò nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; (2) Chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ…, thực hiện chưa hiệu quả; (3) Việc phân công, phân nhiệm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa hợp lý; công tác phối hợp giữa các cơ sở đào tạo, giữa cơ quan quản lý nhà nước về đào tạo và cơ sở đào tạo chưa chặt chẽ; công tác đào tạo nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao phục vụ cho các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh; (4) Việc bố trí nguồn nhân lực chưa đúng chuyên môn, năng lực cũng phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả, năng suất lao động; (5) Chưa thực hiện tốt việc dự báo nguồn nhân lực, giáo dục hướng nghiệp và công tác phân luồng học sinh sau trung học. (6) Vẫn còn tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao ở một số ngành, lĩnh vực chuyển về các tỉnh, thành phố khác có điều kiện phát triển hơn, thu nhập cao hơn để làm việc. Không ít trường hợp đã không ở lại tỉnh công tác mà nguyên nhân ngoài việc là vì chính sách thu hút của tỉnh còn nhiều khó khăn còn là do môi trường làm việc và cơ hội phát triển năng lực bản thân khó phát triển chuyên môn, áp lực công việc quá lớn, thu nhập thấp, chưa thỏa đáng, thậm chí thấp hơn nhiều so với khu vực tư.

Như vậy, để thu hút và giữ chân NNLCLC đáp ứng yêu cầu phục vụ quá trình phát triển kinh tế – xã hội, tỉnh cần có những giải pháp đột phá trước mắt và căn cơ cho lâu dài, cụ thể như sau:

Một là: nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của NNLCLC.  Cần xác định phát triển NNLCLC là trách nhiệm, nghĩa vụ của hệ thống chính trị, trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý, nhà trường, doanh nghiệp, gia đình cũng như của mỗi cá nhân trong đó có nhân lực chất lượng cao. Các cấp ủy đảng, chính quyền và mỗi cán bộ, đảng viên phải phát huy tốt hơn nữa vai trò và trách nhiệm của mình trong xây dựng đường lối, chính sách, hiện thực hóa, kiểm tra, giám sát công tác phát triển NNLCLC. Đối với NNLCLC, cần nhận thức đúng vị trí, vai trò, trọng trách của mình đối với sự phát triển của tỉnh, của đất nước trong thời kỳ mới, điều kiện mới. Phải coi đây là vinh dự, bổn phận để không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, cống hiến tốt nhất cho địa phương; đất nước.

Hai là: tập trung phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ các lĩnh vực trọng tâm, đột phá của tỉnh, nhất là các lĩnh vực đang thiếu. Trong đó, chú trọng đẩy mạnh thu hút chuyên gia đầu ngành để tham gia các dự án hoặc nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh theo 5 trụ cột đã xác định. Phải đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia và cán bộ khoa học và công nghệ đầu ngành. Đẩy mạnh thu hút một số chuyên gia trên lĩnh vực công nghệ thông tin phục vụ cho xây dựng chính quyền điện tử, phát triển kinh tế số, xã hội số. Theo hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, tỉnh cũng sẽ cần vừa thu hút nguồn nhân lực là các chuyên gia đầu ngành vừa đào tạo cán bộ, nâng cao tay nghề lao động, nhất là trong dân trên các lĩnh vực nông - lâm - thủy sản; đồng thời tổ chức nhiều cuộc xúc tiến hợp tác chuyển giao công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua các đề án, chương trình hợp tác cụ thể với các viện, trường, nhà khoa học và địa phương trong, ngoài nước để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong ứng dụng, chuyển giao khoa học - kỹ thuật…

Ba là: hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút nhân tài, cơ chế, chính sách phải đảm bảo cả điều kiện vật chất và điều kiện về môi trường, cơ hội phát triển. Phải thật sự đảm bảo cả 2 điều kiện này, phá bỏ những rào cản tư duy về cách nhìn nhận và đánh giá cán bộ cũng như việc sử dụng NNLCLC. Cần đổi mới tư duy trong tuyển dụng, đánh giá và đãi ngộ nhân lực trên cơ sở năng lực, hiệu quả công việc. Đây chính là động lực để mỗi cá nhân không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề và năng suất, hiệu quả lao động để họ chứng minh và cống hiến trí tuệ. Chú trọng việc hoàn thiện cơ chế đánh giá đối với người có tài năng, mạnh dạn sa thải những đối tượng không đáp ứng nhu cầu công việc cần thu hút; có biện pháp đãi ngộ phù hợp với những đối tượng có năng lực và thành tích tốt, đồng thời có biện pháp xử lý đối với những đối tượng không đáp ứng yêu cầu, như: chuyển đổi sang các vị trí có yêu cầu và thu nhập thấp hơn.

Đối với khu vực công, quan tâm tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng và đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận, mạnh dạn giao những việc khó, mới cho cán bộ có năng lực, đặc biệt là cán bộ trẻ, khỏe, nhiệt huyết vừa tạo điều kiện rèn luyện vừa phát huy được sức sáng tạo, sự cống hiến. Đồng thời, cần làm tốt việc đổi mới, nâng cao chất lượng thi tuyển, xét tuyển và đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức. Có thể đưa ra khỏi quy hoạch đối với các trường hợp không có sự tiến bộ; mạnh dạn thay thế những cán bộ, công chức, viên chức không hoàn thành nhiệm vụ, thiếu trách nhiệm, nói không đi đôi với làm và uy tín thấp, thông qua việc đánh giá đúng thực chất năng lực cán bộ hàng năm.

  Bốn là: nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh. Các  trường Cao đẳng, Đại học phải có định hướng, mục tiêu rõ ràng về sản phẩm của trường mình đào tạo ra, nhằm đáp ứng nhu cầu NNLCLC cho tỉnh. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật là không ngừng nên để đào tạo NNLCLC ngoài các yếu tố trên cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, chương trình đào tạo tiên tiến, tiếp cận thế giới bên ngoài và công nghệ giảng dạy cũng phải luôn được đổi mới để có hiệu quả hơn trong đào tạo. Các trường cần chủ động mở đào tạo các ngành nghề mới đáp ứng sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, cần tăng cường liên doanh liên kết trong đào tạo. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức, quốc tế để nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu của các trường đại học, cao đẳng. Đẩy mạnh đầu tư của tỉnh; sự hỗ trợ của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh để Trường Đai học Bạc Liêu sớm trở thành trung tâm đào tạo chất lượng cao của tiểu vùng bán đảo Cà Mau và Đồng bằng sông Cửu Long.

 Năm là: khuyến khích các doanh nghiệp tham gia tích cực vào công tác phát triển NNLCLC. Phát triển NNLCLC còn đòi hỏi sự hợp tác và tầm nhìn chiến lược của các doanh nghiệp trong toàn tỉnh. Các doanh nghiệp nên đặt hàng các trường đào tạo trong từng giai đoạn cụ thể với những tiêu chí cần thiết phải có của từng loại cán bộ, công nhân để cung cấp cho hoạt động sản xuất. Các doanh nghiệp nên có chính sách đãi ngộ và cơ chế sử dụng hợp lý, nhiều ưu đãi để thu hút người tài về doanh nghiệp mình. Đồng thời các cấp chính quyền cần yêu cầu doanh nghiệp phải tiếp nhận học viên đến thực tập tại cơ sở mình nhằm tạo sự bổ trợ kiến thức kỹ năng tốt nhất cho người học.

NNLCLC là tài nguyên quý giá nhất, lực lượng đầu tàu, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững của tỉnh. Phát triển NNLCLC trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá không thể là công việc có thể làm ngay trong thời gian ngắn, cần có lộ trình. Nhưng cũng cần phải hết sức khẩn trương thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ và hiệu quả nhằm khai thác tốt tiềm năng, lợi thế để xây dựng Bạc Liêu thành một tỉnh phát triển hàng đầu trong tiểu vùng bán đảo Cà Mau và trong khu vực các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long./.

Số lượt xem: 476

TS Lê Quốc Khởi, Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị Châu Văn Đặng

Tin đã đưa
Dịch vụ công Quốc gia Hệ thống văn bản của tỉnh CSDL hộ kinh doanh Thư điện tử công vụ Một cửa điện tử
© TRƯỜNG CHÍNH TRỊ CHÂU VĂN ĐẶNG TỈNH BẠC LIÊU
Địa chỉ: Số 7, Đường Nguyễn Tất Thành, phường 1, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
Điện thoại: 0781. 3823965 Fax: 0781. 3829654